Pháp luật Việt Nam đã công nhận quyền nuôi con nuôi và quyền được làm con nuôi là một trong những quyền con người, quyền công dân được pháp luật tôn trọng, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Mục đích của quyền nuôi con nuôi và quyền được làm con nuôi là để cho trẻ em có được một gia đình thật sự, được yêu thương chăm sóc, được sống trong tình cảm, trưởng thành dưới sự giáo dục, định hướng của cha mẹ. Đồng thời, cũng tạo điều kiện để một số người không may vì hoàn cảnh, sức khỏe vẫn có thể được làm cha, làm mẹ thực thụ. Không chỉ cho và nhận con nuôi trong nước, hiện nay, việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài trở nên rất phổ biến. Việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có gì khác với nuôi con nuôi trong nước? Chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Thế nào là nuôi con nuôi?
Con nuôi là người được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục bởi cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp luật. Theo khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010, nuôi con nuôi được định nghĩa với nội dung cụ thể như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.”
Việc nuôi con nuôi được hình thành và đưa ra quy định cụ thể để nhằm mục đích xác lập mối quan hệ giữa cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của các chủ thể là người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình mới.
Cần lưu ý rằng, kể từ thời điểm các bên thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi, khi các bên đã trở thành cha mẹ nuôi và con nuôi của nhau thì giữa các bên sẽ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con và ngược lại của con đối với cha mẹ theo qui định của pháp luật hiện hành.
Hiện nay, thực trạng nuôi con nuôi bao gồm: Nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Việc nuôi con nuôi dù rất phổ biến, tuy nhiên việc đăng ký nuôi con nuôi thì vẫn còn hạn chế, ít được thực hiện. Hầu hết thì vấn đề về nuôi con nuôi đều làm theo cảm tính. Các chủ thể khi nhận con nuôi vẫn chưa thấy hết các quyền, nghĩa vụ của chính bản thân mình cũng như người được nhận làm con nuôi.
Nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài là thế nào?
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Nuôi con nuôi, khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước.
Theo Điều 28 Luật nuôi con nuôi 2010, các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
-
- Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
- Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
- Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
- Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi;
- Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm.
- – Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi.
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.
Hiểu như thế nào là nuôi con nuôi đích danh và không đích danh?
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đích danh được hiểu là việc xác lập mối quan hệ cha, mẹ, con với đối tượng nhận con nuôi đã được chỉ định trước, tức là được chỉ định rõ người được nhận con nuôi đó là ai.
Khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi quy định cụ thể nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đích danh phải đáp ứng điều kiện về người nhận con nuôi và người nuôi con nuôi.
Người nhận con nuôi đích danh phải là các đối tượng sau: cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột, anh, chị, em ruột đang ở nước ngoài làm việc; là người nước ngoài đã hoặc đang học tập ít nhất 01 năm tại Việt Nam.
Người được nhận con nuôi đích danh là các đối tượng: Trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em mắc các bệnh hiểm nghèo khác căn cứ tại Điều 3 Nghị định 19/2011/NĐ-CP.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không đích danh được hiểu là việc xác lập mối quan hệ cha, mẹ con không nằm trong những trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đích danh đã nếu trên.
Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Điều kiện đối với người nhận con nuôi
Theo khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này”. Cụ thể như sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
- Có tư cách đạo đức tốt.
Những người sau đây không được nhận con nuôi:
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
- Đang chấp hành hình phạt tù.
- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên và có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.
Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Điều 18 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định người làm con nuôi như sau:
- Trẻ em dưới 16 tuổi
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
-
- Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
- Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
- Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con có yếu tố nước ngoài
Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 9 Luật nuôi con nuôi là:
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.
Trên đây chúng tôi khái quát sơ qua vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để Quý vị có thể hiểu và hình dung sơ lược. Nếu có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn chi tiết hơn: letran@familylawyers.vn .