Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, văn minh là một trong những mục tiêu quan trọng xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Tuy nhiên, không phải cuộc hôn nhân nào cũng thuận buồm xuôi gió. Và các vấn đề pháp lý liên quan đến gia đình, cũng như việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong gia đình, hôn nhân, chưa bao giờ đơn giản, đòi hỏi lý lẽ, sự cân nhắc và cả sự thấu hiểu, cảm thông.
Nhằm đảm bảo tính thống nhất, công bằng, hiệu quả trong quá trình tố tụng khi giải quyết các vụ việc liên quan đến hôn nhân và gia đình. Ngày 16/05/2024, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình, góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Nghị quyết gồm 12 Điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024. Le Tran law xin được giới thiệu những nội dung của Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP.
Về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
Điều 2 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại Khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình: “Đang có thai” là thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc chỉ thai nghén. “Sinh con” là một trong các trường hợp: Vợ đã sinh con nhưng không nuôi đến khi con dưới 12 tháng tuổi, con chết dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh, có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.
Trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hoặc ngày đình chỉ thai nghén, chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Vợ đang có thai, sinh con và đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai, cũng như không phân biệt con đẻ, con nuôi, chồng không có quyền yêu cầu ly hôn.
Đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng của người mang thai hộ và chồng của người nhờ mang thai hộ đều không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Về thuận tình ly hôn
Điều 3 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình: “Vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn” là trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn hoặc một bên có đơn khởi kiện, còn bên kia đồng ý. Hai bên có thỏa thuận việc nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Những thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Về ly hôn theo yêu cầu của một bên
Căn cứ để được ly hôn theo Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình được Điều 4 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn: “Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình” là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. “Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia. “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là thuộc một trong các trường hợp: Không có tình nghĩa vợ chồng, vợ, chồng có quan hệ ngoại tình, xúc phạm, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau, không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau, không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Về hạn chế phân chia di sản
Điều 5 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐT hướng dẫn chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 661 của Bộ luật Dân sự là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp khó khăn như không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất… thì áp dụng hạn chế phân chia di sản.
Về việc nuôi con khi ly hôn
Điều 6 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hành quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” phải dựa các tiêu chí: Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột. Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi. Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ. Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con. Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con. Theo nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em hay được sống chung với cha hoặc mẹ. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, độ tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến, tránh gây áp lực tâm lý, căng thẳng cho con.
Người mẹ thuộc một trong các trường hợp sau sẽ “không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con”: Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị bệnh nặng khác mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Có thu nhập mỗi tháng thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người mẹ đang cư trú và không có tài sản nào khác. Không có điều kiện về thời gian tối thiểu để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Và trong trường hợp điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người cha không tốt hơn điều kiện của người mẹ hướng dẫn Điều này thì Tòa án quyết định giao con cho mẹ trực tiếp nuôi.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi ly hôn
Theo Điều 7 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình, trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng. Nếu xét thấy người trực tiếp nuôi con có khả năng, điều kiện và việc họ không yêu cầu là tự nguyện thì Tòa án không buộc bên kia phải cấp dưỡng.
Tiền cấp dưỡng là toàn bộ chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nhưng không thấp hơn nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú. Trường hợp các bên không thỏa thuận được phương thức cấp dưỡng thì Tòa án quyết định phương thức phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và điều kiện kinh tế của người cấp dưỡng.
Về những hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên
Điều 8 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hiện quy định tại Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên khi:
“Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý” là bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý.
“Hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con hoặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của con.
“Phá tán tài sản của con”là mua bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của con, không vì lợi ích của con.
“Có lối sống đồi trụy” là ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ tục.
“Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” là hành vi kích động, dụ dỗ, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu, ra quyết định hạn chế quyền cha mẹ đối với con chưa thành niên, cũng như quyết định rút ngắn thời hạn hạn chế trong trường hợp cha, mẹ đã thực hiện được một nửa thời hạn quyết định.
Về thẩm quyền giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình
Điều 9 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn xác định thẩm quyền giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình trong một số trường hợp cụ thể sau:
Vụ án về hôn nhân và gia đình có tranh chấp về bất động sản mà nơi cư trú, làm việc của bị đơn, nguyên đơn quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và nơi có bất động sản đang tranh chấp khác nhau thì thẩm quyền của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp cha và mẹ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài khởi kiện thay đổi người nuôi con sau khi ly hôn, con đang sinh sống tại Việt Nam thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ
Người Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài nhưng chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài thì tại Điều 10 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn giải quyết:
– Người thân của bị đơn ở trong nước nhưng không cung cấp địa chỉ, không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết khi Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai thì Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
– Sau khi xét xử, Tòa án gửi cho người thân của bị đơn bản sao bản án, quyết định để họ chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của bị đơn và nơi người thân của bị đơn cư trú để đương sự có thể thực hiện quyền kháng cáo.
Về án phí trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình
Điều 11 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn. Đương sự phải chịu án phí trong vụ án tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con theo quy định, trừ trường hợp con chưa thành niên hoặc con mất năng lực hành vi dân sự.
Trong vụ án ly hôn thuận tình: Trường hợp các bên đương sự thuận tình ly hôn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì mỗi bên phải chịu 25% mức án phí. Trường hợp thuận tình ly hôn tại phiên tòa sơ thẩm mỗi bên phải chịu 50% mức án phí. Trường hợp trước khi mở phiên tòa, các bên đương sự tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung thì mỗi bên phải chịu 25% mức án phí. Đối với tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu tương.
Những hướng dẫn chi tiết của Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hy vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về hôn nhân và gia đình.
Cùng tìm hiểu sâu hơn ở những bài viết tiếp theo. Đừng quên theo dõi và cập nhập thêm nhiều thông tin hữu ích khác trên trang web của chúng tôi. Hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn chi tiết hơn: letran@familylawyers.vn