Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì: ““Lừa dối kết hôn” quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và Gia đình là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.”
Lừa dối kết hôn vi phạm điều kiện hôn nhân tự nguyện, trái với những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình ”Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Đây là một trong những hành vi bị cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Vấn đề này cũng được ghi nhận tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015. “Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Khái niệm nêu trên được áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự, không có định nghĩa riêng về sự lừa dối trong hôn nhân.